vchat

Hạnh phúc chẳng ở đâu xa

Hạnh phúc ở ngay trong gia đình bạn chớ đi tìm nó ở nơi địa đàng của kẻ xa lạ.

Gia Đình

Người ta có thể đến nhiều nơi nhưng chỉ có một chốn để quay về đó là Gia Đình

Tương lai

Không thể nào thay đổi được ngày hôm qua. Nhưng hôm nay ta vẫn còn cơ hội

Mẹ

Trái tim của người mẹ là vục sâu muôn trượng, mà ở đó bạn luôn tìm được sự tha thứ.

Cha

Người cha chính là người thầy đầu tiên của những đứa trẻ.

LOHHA Tráng Kiện - hỗ trợ điều trị chứng nhược cơ hiệu quả

Bệnhnhược cơ là bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Cho dù chưa có một bằng chứng xác đáng nào chứng minh hiệu quả tuyệt đối của các biện pháp điều trị nhưng bệnh nhược cơ là bệnh có nhiều cơ hội điều trị thành công.

Nhược cơ


Nhược cơ mặc dù là bệnh tự miễn (bệnh thuộc hàng khó trị) nhưng bệnh nhược cơ là bệnh dễ kiểm soát nhất trong nhóm bệnh này. Người bệnh có nhiều cơ hội lựa chọn các phương pháp điều trị khác nhau và đương nhiên là có nhiều cơ hội quay trở lại với cuộc sống bình thường

LOHHA Tráng Kiện


LOHHA Tráng Kiện giúp Hỗ trợ điều trị nhược cơ, Hạn chế biểu hiện sụp mí mắt trong thể nhược cơ, giúp giảm tình trạng khó nói, khó nuốt, cử động tay chân yếu… do nhược cơ gây nên

Thành phần:

Cao Panacapus: (trong Nhân Sâm và Hoàng Kỳ) giúp cân bằng hệ thống phòng cơ thể và ức chế cytokines gây viêm, điều gòa protein NF-Kb giảm tính nhạy cảm của thụ thể miễn dịch giúp điều hòa miễn dịch mạnh,  tăng tổng họp và giải phóng Acetycholin trong não, có khả năng phục hồi thần kinh cơ, tăng hiệu suất hoạt động thân kinh cơ tốt hơn phrnamin.

Cao Lá chay: có tác dụng: ức chế miễn dịch mạch trong việc chông thải ghép các mô cấy ghép


Lá chay
.

Cao viễn chí: Viễn chí được dùng chữa ho, nhiều đờm, viêm phế quản, hay quên, giảm trí nhớ, liệt dương, yếu sức, mộng tinh, bổ cho nam giới và người già, thuốc làm sáng mắt, thính tai, có tác dụng trên thận. Còn chữa đau tức ngực, lao, ngủ kém, suy nhược thần kinh, ác mộng.

Cao táo nhân: Có tác dụng dưỡng tâm, an thần, bổ âm, liễm hãn. Chữa các trường hợp bồn chồn kích ứng, hồi hộp, mất ngủ, đau tức vùng ngực, tim đập mạnh (kinh quý chính xung) cơ thể hư nhược, nhiều mồ hôi (tự hãn và đạo hãn)

Công dụng:

-       Hỗ trợ điều trị nhược cơ
-       Hạn chế biểu hiện sụp mí mắt trong thể nhược cơ, giúp giảm tình trạng khó nói, khó nuốt, cử động tay chân yếu… do nhược cơ gây nên
-       Tăng trương lực cơ tay, cơ chân, giảm mỏi có khi hoạt động cơ nhiều, giảm dần sự lệ thuộc của cơ thể vào các thuốc ức chế miễn dịch

Đối tượng sử dụng:

Bệnh nhận nhược cơ thể nhẹ và trung bình, bệnh nhân nhược cơ sau phẫu thuật tuyến ức

Cách dùng:

-       Liều tấn công: ngày 9 viên chia 3 lần vào lúc 8h, 14h, 20h trong 6 tháng.
-       Liều cuảng cố: ngày 6 viên chia 3 lần vào lúc 8h, 14h, 20h, trong 9 tháng
-       Liều duy trì: Ngày 3 viên chia 3 lần vào lúc 8h, 14h, 20h đến khi ổn định hoàn toàn
Lưu ý:
·         Thận trong với người nhược cơ nặng, nhược cơ có suy thở
·         Người dưới 14 tuổi cần hỏi ý kiến bác sỹ
·         Không sử dụng trong nhược cơ do u ác tính tuyến ức
Quy cách: hộp 3 vỉ x 10 viên, hộp 30 viên
Giá bán: 1 hộp: 220.000 vnđ/ hộp
Sản xuất: Công ty Cổ phần đầu tư và sản xuất Âu Cơ
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát, nhiệt độ dưới 30­­ độ C, tránh ánh nắng mặt trời, để xa tầm tay trẻ em.
“Liên hệ để được tư vấn và giao hàng tận nhà”
Công ty TNHH Thực Phẩm Chức Năng LOHHA
Địa chỉ: 92B Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: 0435 666 347




Tìm hiểu về bệnh Nhược cơ

Nhược cơ là một bệnh thần kinh - cơ tự miễn với đặc tính yếu cơ vân. Nữ gặp nhiều hơn nam tỷ lệ thường 3/2, gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp từ 15 đến 20 tuổi. Số bệnh nhân có u tuyến ức phổ biến ở tuổi 40-50. Ở tuổi 60-70 thì bệnh nhược cơ chủ yếu là nam giới. Ở Ðông Á thấy bệnh khá cao ở trẻ dưới 3 tuổi, còn ở vùng khác rất ít khi trẻ em dưới 10 tuổi bị bệnh. Tỷ lệ mới mắc hàng năm là khoảng 2-6/100.000 dân, còn tỷ lệ hiện mắc là 20-50/100.000 dân.



Bệnh nhược cơ là bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Cho dù chưa có một bằng chứng xác đáng nào chứng minh hiệu quả tuyệt đối của các biện pháp điều trị nhưng bệnh nhược cơ là bệnh có nhiều cơ hội điều trị thành công.

Nguyên nhân:

Nhược cơ là tình trạng sức cơ của người bệnh yếu dần, tiến triển, nặng dần vào cuối ngày và sau khi vận động. Mặc dù cấu trúc cơ bình thường, mặc dù sức khỏe các hệ cơ quan khác bình thường nhưng người bệnh lại không thể làm được việc gì dù nhỏ nhất. Trong những giai đoạn điển hình, người bệnh thậm chí còn không thể nhấc được tay lên mà chỉ có ngồi để thở.



Hiện nay, cơ chế gây bệnh được giả thuyết theo 3 hướng: Hướng thứ nhất là trong cơ thể người bệnh xuất hiện các tự kháng thể kháng lại các thụ cảm thể của acetylcholin, gọi tắt là Ach. Các Ach không gắn được vào màng sau synap và không thể dẫn truyền xung động thần kinh tới cơ. Cơ bị yếu lực. Hướng thứ hai là trong cơ thể người xuất hiện các tự kháng thể kháng lại enzym kinase đặc hiệu cơ. Enzym này bị kháng thì các thụ cảm thể của Ach khó được biệt hóa và hình thành.
Hướng thứ ba là do hệ miễn dịch của người bệnh quá mẫn cảm do u tuyến ức gây ra. Tuyến ức phát triển quá mạnh, tự sản xuất ra các tự kháng thể chống lại các thụ cảm thể của Ach. Trong 75% số nạn nhân của bệnh, người ta tìm thấy có bằng chứng rõ ràng của sự phát triển bất thường của tuyến ức. Có khoảng 15% số nạn nhân có sự xuất hiện của u tuyến ức.

Triệu chứng:

-       Cơ mắt – mi: Sụp mi là biểu hiện sớm nhất. Bệnh nhân bị sụp cả hai mí không đều nhau (ngủ dậy thường không rõ). Khi cơ mắt bị tổn thương, phản xạ đồng tử yếu.
-        Các cơ thuộc hành tủy (cơ nói, cơ nhai, cơ hô hấp, nuốt): Nét mặt đờ đẫn, mất linh hoạt. 


   Bệnh ngày một nặng khiến việc nhai nuốt của bệnh nhân trở nên khó khăn. Khi ăn, uống rất dễ bị sặc, không ăn được thức ăn đặc. Nếu bị nặng, hàm dưới trễ xuống phải dùng tay đỡ và đẩy lên.

-       Các cơ ở chi và thân: Các cơ ở vai, cánh tay, ở vùng lưng và cơ gáy bị nhược khiến người bệnh không đứng và ngồi được lâu.



Tiến triển của bệnh:
Theo Osserman chia bệnh nhược cơ thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1:
Nhược cơ khu trú một nhóm cơ, thường ở mắt 15%.
Giai đoạn 2: 
2a:Nhược cơ toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, không rối loạn nuốt và khó thở chiếm 60%.
2b: Nhược cơ toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, kèm rối loạn nuốt nhưng không rối loạn hô hấp.
Giai đoạn 3:
Nhược cơ toàn thân nặng, cấp, thiết lập nhanh với liệt các cơ ngoại vi và có rối loạn hô hấp, tương ứng với cơn nhược cơ. Thể tiến triển chiếm 15% nhược cơ.
Giai đoạn 4:
Thiết lập nặng dần của nhược cơ đã có từ lâu, tiến triển của những thể nhược cơ khác.
Như vậy, nhược cơ nặng là bắt đầu giai đoạn 2b của Osserman.
Cơn nhược cơ nặng cần được hồi sức hô hấp khi có một trong các dấu hiệu sau:
Suy hô hấp cấp do liệt cơ hô hấp nếu thấy lòng ngực xẹp khi thở vào mà cơ hoành vẫn di động bình thường là liệt cơ liên sườn, nếu vùng thượng vị không phồng khi thở vào nhưng cơ ức đòn chũm, cơ thang co kéo là liệt cơ hoành, còn mất phản xạ nuốt và ứ động đờm dãi là liệt màn hầu. Liệt cơ hô hấp dẫn tới xẹp phổi và nghe phổi có nhiều ral ẩm. Suy hô hấp còn do nuốt sặc và do tác dụng phụ của các thuốc kháng cholinesterase vì thuốc này gây co thắt phế quản và tăng tiết đờm dãi.
Ho khó hoặc không ho được.
Nói khó hoặc không nói được.
Nuốt khó hoặc hoàn toàn không nuốt được.
Nặng hơn là bệnh nhân thoi thóp, hầu như không cử động.
Nhược cơ nặng thường xảy ra trong 4 năm đầu của bệnh.


Điều trị:
Bạn cần khám: khi thấy yếu cơ hoặc khó khăn trong kiểm soát cơ mắt, mặt, miệng, khó thở, yếu nhược cơ chân tay… Hiện tại chưa có biện pháp điều trị triệt để, nhưng các phương pháp điều trị triệu chứng lại khá hữu hiệu. Việc khám và điều trị sớm thì khả năng làm giảm các triệu chứng của bệnh đau nhược cơ càng cao.
Hướng xử trí nhằm 4 mục tiêu sau:
Hồi sức hô hấp (nếu có suy hô hấp).
Ðiều trị triệu chứng.
Ðiều trị tự miễn.
Phẫu thuật tuyến ức.


Hồi sức hô hấp:
Các biện pháp hồi sức hô hấp phải được thực hiện ngay lập tức, càng khẩn trương thì khả năng cứu sống bệnh nhân càng nhiều. Ngưng cho bệnh nhân ăn qua đường miệng. Ðặt ống thông dạ dày. Khai thông đường dẩn khí là việc đầu tiên phải làm, nhưng dẩn lưu tư thế không được đặt ra trong trường hợp nhược cơ. Phải đặt ống thông nội khí quản hoặc mở khí quản, nó cho phép hút đờm nhiều lần, tránh được xẹp phổi, qua đó có thể tiến hành thở máy hoặc bóp bóng có hiệu quả bất kỳ lúc nào. Không chỉ thế mà còn tránh được tai biến hít phải dịch vị. Lưu ý trước lúc đặt ống thông hoặc mở khí quản không tiêm valium , chỉ gây tê tại chổ.

Điều trị triệu chứng (dùng thuốc để điều trị bệnh):

Phương pháp dùng thuốc là phương pháp đầu tiên được áp dụng để điều trị. Trong phương pháp này, người ta sử dụng nhiều thuốc khác nhau để làm bình thường hóa sự dẫn truyền xung động thần kinh tới cơ.
Vì trong đa phần các trường hợp, cơ chế gây bệnh chủ yếu theo giả thuyết thứ nhất, nghĩa là trong cơ thể tự xuất hiện các tự kháng thể kháng lại các thụ cảm thể của Ach. Cho nên các thuốc được sử dụng bao gồm: các thuốc ức chế men cholinestearase, thuốc ức chế miễn dịch, kháng thể IgG và một số thuốc phối hợp điều trị khác.
Thuốc ức chế men cholinestearasen là thuốc cơ bản nhất, đầu tiên nhất được chỉ định. Cơ chế là làm tăng nồng độ và thời gian lưu tồn của Ach trong synap. Khi nồng độ Ach thấp thì có thể không đủ sức mạnh để gắn vào thụ cảm thể Ach. Nhưng nếu nồng độ Ach cao thì chúng đủ sức mạnh gắn vào những thụ cảm thể đang bị kém hoạt tính. Bằng chứng trên thực tế cho thấy, ngay từ liều đầu tiên và ngay những ngày đầu điều trị, người bệnh đã có những đáp ứng rất tốt và gần như đạt hiệu quả.
Sau một thời gian hoặc ở những thể bệnh đặc biệt như sự kháng lại thụ cảm thể Ach quá mạnh, người ta phải dùng thêm các thuốc ức chế miễn dịch. Mục tiêu dùng các thuốc này làm giảm nồng độ các tự kháng thể trong máu và giảm sự chống lại các thụ cảm thể Ach trong synap. Các thụ cảm Ach được giải phóng và được hoạt hóa trở lại. Sức cơ được cải thiện.
Hiệu quả của phương pháp dùng thuốc là khá cao. Tỷ lệ thành công và làm ổn định bệnh có thể đạt tới 70-90% tùy thuộc vào từng người và từng giai đoạn bệnh. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, tuy bệnh có đáp ứng với điều trị nhưng điều đó không có nghĩa là bệnh khỏi mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể làm ổn định bệnh và khống chế triệu chứng. Việc điều trị lặp lại sẽ xuất hiện khi bệnh tái phát.

Phương pháp lọc huyết tương

Phương pháp lọc huyết tương là phương pháp dùng một máy móc bên ngoài kiểu như chạy thận nhân tạo để lọc máu loại bỏ bớt các tự kháng thể ra khỏi máu. Phương pháp này tỏ ra khá ưu việt vì nó loại bỏ trực tiếp căn nguyên gây ra bệnh - các tự kháng thể. Tuy vậy, việc điều trị đắt và đòi hỏi máy móc.
Ưu điểm lớn nhất là phương pháp lọc máu có tỷ lệ thành công cao, ngay cả ở những trường hợp khó, những trường hợp mà không đáp ứng với thuốc hoặc những thể bệnh đặc biệt. Thường thì sau một số lần điều trị nhất định, thuốc tỏ ra kém đáp ứng. Cũng có thể là do tác dụng phụ của thuốc quá lớn và không thể tiếp tục. Hoặc là do thể bệnh thuộc loại kháng enzym kinase đặc hiệu cơ. Khi đó cần phải lọc huyết tương.



Lọc huyết tương có tác dụng duy trì thời gian khỏi bệnh trong một thời gian tương đối ngắn. Thường thì sau 2 tháng, người bệnh lại phải tiến hành lọc một lần. Phương pháp này có ưu điểm rất lớn là công hiệu rất cao, hầu như không có kháng trị. Nhưng nó lại không kéo dài tác dụng.

Phương pháp cắt bỏ tuyến ức

Phương pháp cắt bỏ tuyến ức là phương pháp cắt bỏ u tuyến ức để loại bỏ nơi sản xuất ra các tự kháng thể trong máu. Người ta cho là u tuyến ức hay là tuyến ức quá phát là nơi sản xuất ra các tự kháng thể gây ra bệnh nhược cơ. Cho nên nếu như cắt bỏ tuyến này đi thì sẽ triệt tiêu được nguồn gốc gây ra bệnh.
Cắt bỏ tuyến ức chỉ được áp dụng khi người bệnh có sự phát triển bất thường rõ ràng của tuyến ức. Xét nghiệm để chẩn đoán được u tuyến ức là chụp cắt lớp vi tính (chụp CT) hoặc chụp Xquang có bơm hơi trong lồng ngực.
Phương pháp phẫu thuật được áp dụng không nhiều vì chỉ có khoảng 15% số bệnh nhân có u tuyến ức. Tốc độ cải thiện bệnh của nó chậm. Phải sau 2-24 tháng thì người bệnh mới thuyên giảm được các triệu chứng. Nhưng biện pháp này có thể duy trì thời gian khỏi bệnh tới tận 7-10 năm và tỷ lệ thành công vào khoảng 40-60%.
Tuy có một tỷ lệ người bệnh tái phát hoặc không đáp ứng với điều trị nhưng thời gian khỏi bệnh rất ấn tượng. Những người mà có u tuyến ức thực thụ thì họ có thời gian khỏi bệnh rất lâu, lâu nhất so với các biện pháp khác.

Tóm lại, mặc dù là bệnh tự miễn (bệnh thuộc hàng khó trị) nhưng bệnh nhược cơ là bệnh dễ kiểm soát nhất trong nhóm bệnh này. Người bệnh có nhiều cơ hội lựa chọn các phương pháp điều trị khác nhau và đương nhiên là có nhiều cơ hội quay trở lại với cuộc sống bình thường

Bệnh Alzheimer và những điều cần biết

Mất trí nhớ phá vỡ cuộc sống hàng ngày, không phải là một phần điển hình của tuối già mà có thể là triệu chứng của bệnh Alzheimer; một bệnh trầm trọng của não bộ. Bệnh này là nguyên nhân gây ra suy giảm trí nhớ, giảm khả năng tư duy (suy nghĩ, giải quyết vấn đề đặt ra hợp lý) và các kỹ năng cuộc sống bình thường. 


Bệnh Alzheimer là một bệnh thoái hóa não nguyên phát, căn nguyên chưa rõ ràng, biểu hiện lâm sàng bằng trạng thái mất trí tiến triển, không phục hồi, thường khởi phát ở lứa tuổi trên 65.
Tỷ lệ bệnh Alzheimer ở người trên 65 tuổi là khoảng 5% và ở nhóm người trên 85 tuổi là 20%.
Về lâm sàng, trạng thái mất trí tiến triển thường khởi đầu bằng rối loạn trí nhớ, các rối loạn ngôn ngữ, rối loạn hoạt động, rối loạn trí tuệ.

Triệu chứng:

1. Giảm trí nhớ tới mức đảo lộn cuộc sống hàng ngày: quên tên người đã quen biết từ trước hoặc quên một công việc nào đó đã sắp xếp để làm nhưng vào một lúc nào đó nhớ lại được (rằng mình đã quên). Một trong các dấu hiệu chung nhất là quên những điều mới được nhắc tới. Quên thời điểm, sự kiện hàng ngày, do đó hỏi đi hỏi lại người thân, hay phải nhờ đến sổ ghi nhắc nhở.

2. Không ra được kế hoạch hay không thực hiện được một công việc nào đó: có lúc làm sai hoặc không làm được, phải cần đến sổ ghi nhắc nhở. Ví dụ: giảm khả năng ra dự định, kế hoạch hoặc tiếp tục theo đuổi công việc, có thể quên món ăn quen thuộc hay các khoản thanh toán hàng tháng. Có thể khó tập trung lâu để làm một việc nào đó mà trước kia đã làm bình thường suôn sẻ.

3. Không hoàn tất công việc nhà, việc nào đó hay cả khi giải trí rảnh rỗi: từng lúc cần người trẻ giúp sử dụng vật dụng trong nhà như khởi động lò vi-ba hay nhớ giờ kênh truyền hình sẽ đón xem. Đôi khi không biết đến những nơi trước kia thân thuộc, không biết tiền còn nhiều hay ít, quên cả nguyên tắc trò chơi thích thú.

4. Lầm lẫn thời điểm trong ngày, ngày trong tuần nhưng biết sau đó đoán ra được. Không theo dõi dấu vết thời gian, mùa và khoảng thời gian, có thể hiểu sai điều gì nếu không xảy ra tức thì. Đôi khi quên nơi đang ở và đến đây bằng cách nào.

5. Mắt nhìn kém đi vì đục thủy tinh thể. Đây là một dấu hiệu bệnh Alzheimer, đọc chữ kém, không biết khoảng cách xa gần, khó xác định màu sắc. Có thể không biết tấm gương trước mặt và nghĩ có người trong đó.

6. Khó khăn tìm đúng từ để nói hay viết, không ráp nối được các ý nghĩ khi nói chuyện, ngưng giữa chừng, hết ý nghĩ để tiếp tục câu chuyện dở dang và do đó tự lặp lại. Có cố gắng tìm từ, chữ để nói hoặc viết nhưng khó tìm đúng từ muốn ói.

7. Để đồ vật không đúng chỗ như mọi ngày, mất khả năng quay lại tìm đúng chỗ cũ, đôi lúc nói “ai lấy mất rồi!”.

8. Khả năng nhìn nhận phán xét giảm. Xử lý, giải quyết hay làm sai việc gì đó trong một khoảng thời gian, ví dụ nhìn nhận sai về tiền bạc của mình, cho không đúng đối tượng. Ít chú ý đến ăn mặc, giữ quần áo không sạch.

9. Rút lui khỏi công việc và sinh hoạt xã hội. Đôi khi cảm thấy mệt mỏi, chán với công việc, với người thân và với những trao đổi bên ngoài. Người bệnh có thể bắt đầu tự tránh xa các hứng thú trước đó, các hoạt động quan hệ bên ngoài, không liên lạc bạn bè đồng đội, láng giềng hay không biết kết thúc một cách hứng thú.

10. Buồn vui, giận dỗi và tính nết thay đổi. Cư xử hàng ngày theo cách của mình, trở nên cáu kỉnh khi sinh hoạt thường lệ bị thay đổi hay gián đoạn. Người bệnh có thể trở nên lẫn lộn, nghi ngờ, phiền muộn , lo âu hay quá sợ sệt. Có thể làm đảo lộn bất hòa trong gia đình, với bạn bè hay nơi lẽ ra thoải mái.

 Không có lộ trình rõ ràng để điều trị dứt điểm căn bệnh này, nhưng có một số cách có thể giúp đối phó hiệu quả hơn với chứng mất trí nhớ.


Dừng đổ lỗi cho bản thân. Sống trong quá khứ không giúp ích điều gì, đặc biệt nếu có thái độ hối tiếc hay ý nghĩ tiêu cực, như: Alzheimer là do lỗi của bạn, hay không cho phép bản thân bị bệnh Alzheimer hoặc rơi vào cái bẫy luôn suy nghĩ về một bộ nhớ hoàn hảo… Bạn cần phải nhẹ nhàng nhắc nhở bản thân và những người khác tránh xa những ý nghĩ tiêu cực này.
Tự hỏi những gì bạn có thể làm để tránh bị mất trí nhớ mới là điều quan trọng. Tránh nghĩ đến những điều bạn không thể kiểm soát (như quá khứ hay di truyền), mà tập trung vào những gì bạn có thể kiểm soát, chẳng hạn như  sức khỏe thực hiện lối sống lành mạnh chính là điều cần thiết.
Chấp nhận sự thật. Bộ nhớ của bạn không phải là tuyệt vời, và bạn có thể bị nhầm lẫn ở đâu đó, nhưng tuyệt đối không được đầu hàng khi Alzheimer tấn công. Đôi khi có sự thâm hụt về kiến thức là điều đương nhiên và để giải quyết vấn đề này, hãy áp dụng một số kỹ thuật giúp tăng cường bộ nhớ nhằm mục đích nhớ lại hoặc theo dõi các thông tin, sự kiện mà bạn thực hiện.
Dừng cảm giác xấu hổ và cô lập chính mình. Có bệnh Alzheimer hoặc chứng mất trí không có nghĩa bạn nên ngừng tương tác với những người khác. Thu người lại với mục đích không muốn người khác nhận thấy bộ nhớ của bạn có vấn đề không phải phản ứng tích cực. Nếu làm bất cứ điều gì để tránh gây lúng túng cho mình, nhưng thiếu sự tương tác xã hội có thể góp phần gây trầm cảm, khiến chứng mất trí nhớ thêm tồi tệ.
Ngừng chiến đấu một mình. Bạn không phải là một người hoàn hảo và không cần phải cố gắng một mình thực hiện mọi việc. Từ chối sự hỗ trợ từ những người khác có thể khiến bạn lâm vào tình trạng kiệt quệ. Chia sẻ, tâm sự về chứng bệnh của mình hoặc đi dạo với một người bạn, tham gia một nhóm hỗ trợ dành cho những người bị mất trí nhớ là việc làm cần thiết. Luôn sẵn sàng cho phép người khác khuyến khích, giúp đỡ bạn, và chấp nhận các nguồn lực cộng đồng có sẵn trong cuộc chiến chống lại bệnh Alzheimer là khuyến cáo hữu ích.
Ngừng giả vờ. Giả vờ hoặc bỏ qua các triệu chứng của bệnh mất trí nhớ không giúp nó mất đi mà còn khiến bệnh thêm trầm trọng. Việc sớm nhận được một chẩn đoán chính xác có thể giúp bạn chủ động hơn trong việc điều trị. Có một số nguyên nhân có thể bị nhầm lẫn của chứng mất trí nhớ, như thiếu hụt vitamin B12 hoặc tràn dịch não bình thường, do đó, một đánh giá toàn diện rất quan trọng.
Đối mặt với chẩn đoán cho phép bạn bắt đầu điều trị sớm, và cũng có thể khuyến khích bạn chủ động ứng phó với cuộc sống về sau.
Ngừng lạm dụng thuốc, rượu bia. Dùng thuốc hay rượu bia có thể giúp tạm thời xua tan nỗi buồn khi nghĩ đến bệnh tật, nhưng về lâu dài thói quen này khiến tình hình thêm tồi tệ. Việc lạm dụng thuốc để đối phó với bệnh mất  trí nhớ kết hợp với các loại thuốc theo quy định, là một công thức vô cùng nguy hiểm. Cách tốt nhất để nâng cao chất lượng cuộc sống nếu chẳng may bị chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer là tập thể dục và rèn luyện tinh thần.
Tránh bỏ cuộc. Trầm cảm có thể là một phản ứng dễ hiểu đối với một chẩn đoán của bệnh Alzheimer, nhưng bạn không nên đầu hàng trước nó. Giảm sút giá trị cuộc sống hay quy phục trước kẻ thù sẽ cho phép các bệnh mất trí nhớ chiến thắng. Nếu bạn cảm thấy đang chán nản hoặc lo lắng, hãy hỏi bác sĩ về thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống lo âu để giúp thư giãn.
Đừng quá nghiêm túc. Theo About, Alzheimer là bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, không cần phải gác lại cảm giác hay tâm trạng vui vẻ, hài hước. Khoa học đã chứng minh tiếng cười là liều thuốc cực kỳ hiệu quả giúp chống lại mọi bệnh tật, vì thế, nếu có cơ hội hãy xem một bộ phim hài, đọc một cuốn truyện cười, và sẵn sàng mỉm cười với mình và người khác.

Điều trị:

Các biện pháp chung


·         Tạo môi trường tâm lý xã hội cho người cao tuổi. Không nên thay đổi chỗ ở, tạo điều kiện cho họ tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời, câu lạc bộ người cao tuổi.
·         Chế độ dinh dưỡng đầy đủ, hợp lý, cung cấp đầy đủ các yếu tố vi lượng như canxi, phospho. Tránh lạm dụng rượu, thuốc lá.
·         Điều trị các bệnh kết hợp như bệnh phổi, phế quản, bệnh tim mạch, đái tháo đường…

Điều trị bằng thuốc
·         Các chất cholinergic: Rivastigmine (exelon) là một chất ức chế men acetylcholinesterase, thuốc có tác dụng chọn lọc trên enzym đích ở hồi hải mã và vỏ não, những vùng này bị ảnh hưởng nhiều nhất trong bệnh Alzheimer. Thuốc exelon nói chung dung nạp tốt, nhưng vẫn có vài tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, chậm nhịp tim.
·         Ngoài ra, còn sử dụng các thuốc như nivalin, gliatylin cũng cho kết quả khả quan. Các thuốc trên chỉ có tác dụng làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer chứ không điều trị khỏi bệnh.
·         Nếu bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác đi kèm thì cần điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm (nhóm SSRI) và thuốc an thần (thuốc an thần mới). Việc điều trị này phải do bác sỹ chuyên khoa tâm thần đảm nhiệm. Liều thuốc chỉ dùng bằng 1/3 đến 1/2 liều người lớn thông thường. Khi bệnh nhân có kích động, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác nặng thì phải nhập viện điều trị.

Phòng ngừa:

Các nghiên cứu dịch tễ đưa ra kết luận rằng các hoạt động nhưđánh cờ hoặc những mối tương tác xã hội có khả năng làm giảm nguy cơmắc bệnh, mặc dù không tìm thấy được mối quan hệ nhân quả nào.
Hiện nay không có bất kỳ một bằng chứng dứt khoát nào hỗ trợ đặc biệt hiệu quả cho các biện pháp ngăn chặn hoặc trì hoãn sự khởi đầu của bệnh, tuy nhiên các nghiên cứu dịch tễ học đã đề xuất mối quan hệ giữa các yếu tố nhất định, chẳng hạn mối liên hệ giữa chế độ ăn uống, nguy cơ tim mạch, các sản phẩm dược phẩm, sản phẩm công nghệ thông tin, với khả năng số bệnh nhân ngày một tăng.
Mặc dù các yếu tố tim mạch, như tăng cholesterol, cao huyết áp, tiểu đường, và hút thuốc lá, được liên kết với một nguy cơ khởi phát và phát triển bệnh Alzheimer, nhưng statin là loại thuốc làm giảm cholesterol vẫn chưa chứng minh được hiệu quả trong việc ngăn ngừa hoặc cải thiện tiến trình phát triển bệnh. Chế độ ăn kiêng của người vùng Địa Trung Hải, trong đó bao gồm trái cây và rau quả, bánh mì, lúa mì và ngũ cốc khác, dầu ô liu, cá, và rượu vang đỏ có thể làm giảm rủi ro mắc bệnh Alzheimer.
Việc sử dụng vitamin không tìm thấy bằng chứng đủ hiệu quả để khuyến cáo trong việc phòng ngừa và chữa trị bệnh: như vitamin C, E, hoặc axit folic , có hoặc không có vitamin B12. Thử nghiệm kiểm tra acid folic (B9) và vitamin B khác không cho thấy bất kỳ liên kết quan trọng với suy giảm nhận thức.
Những người tham gia vào các hoạt động trí tuệ như đọc sách, chơi trò chơi hội đồng, hoàn thành câu đố ô chữ, chơi nhạc cụ, hoặc tương tác xã hội thường xuyên cho thấy giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Điều này tương thích với các lý thuyết dự trữ nhận thức, trong đó nêu rằng một số kinh nghiệm đời sống cho kết quả hoạt động thần kinh hiệu quả hơn việc cung cấp dự trữ một nhận thức cá nhân trong sự trì hoãn việc khởi đầu của những biểu hiện mất trí nhớ .

Chăm sóc tại nhà:

Bệnh Alzheimer không thể chữa trị được và dần dần nó sẽ làm cho người bệnh không có khả năng đáp ứng những nhu cầu riêng của họ, cho nên việc chăm sóc phải được quản lý chặt chẽ trong quá trình của bệnh.
Trong giai đoạn đầu và giữa, sửa đổi môi trường sống và lối sống có thể tăng tính an toàn cho bệnh nhân và giảm gánh nặng cho người chăm sóc. Bệnh nhân có thể không có khả năng tự ăn uống , do đó, yêu cầu thực phẩm được cắt thành từng miếng nhỏ hoặc nghiền. Khi nuốt sẽ rất khó khăn, cho nên phải sử dụng các ống dẫn thức ăn. Trong trường hợp này, hiệu quả y tế và đạo đức của việc nuôi bệnh là một yếu tố quan trọng của những người chăm sóc và các thành viên trong gia đình.
Khi bệnh tiến triển, các vấn đề y tế khác nhau có thể xuất hiện, chẳng hạn như bệnh răng miệng, loét áp lực, suy dinh dưỡng, các vấn đề vệ sinh, da, hô hấp, hoặc nhiễm trùng mắt. Chăm sóc cẩn thận có thể ngăn chặn chúng.


Hamosen - giảm cholesterol, giảm thừa cân - béo phì

Cây sen rất quen thuộc với người Việt, mọi thành phần từ sen đều có tác dụng, như: hạt sen (liên nhục) dùng nấu chè, tâm sen (liên tâm) làm thuốc an thần, ướp trà, ngó sen (liên ngẫu) dùng làm gỏi... Và một bộ phận của sen ít người biết có công dụng chữa bệnh, đó là lá sen.



Lá sen (còn gọi là hà diệp), từ lâu đã được y học cổ truyền dùng làm thuốc chữa bệnh. Lá sen có công dụng an thần, chống co thắt cơ trơn, chống choáng phản vệ, ức chế loạn nhịp tim. Tác dụng an thần của lá sen mạnh hơn tâm (tim) sen, có tác dụng kéo dài giấc ngủ. Về sau này, khi mà bệnh béo phì trở nên phổ biến, thì lá sen được sử dụng rất hiệu quả để chống lại căn bệnh này. Lá sen phối hợp với các vị thuốc sơn tra, hà thủ ô và thảo quyết minh (hạt muồng) pha trà uống thường xuyên sẽ có tác dụng giảm cholesterol cùng các tác nhân gây béo phì.
Sau đây là những cách dùng lá sen chữa bệnh:
Chữa háo khátLá sen non (loại lá còn cuộn lại chưa mở càng tốt) rửa sạch, thái nhỏ, ép lấy nước uống làm nhiều lần trong ngày. Hoặc thái nhỏ, trộn với các loại rau ghém, ăn sống hằng ngày. Người bị tiêu chảy vừa chữa khỏi, cơ thể đang bị thiếu nước dùng rất tốt.
Chữa máu hôi không ra hết sau khi sinhLá sen sao thơm 20-30g, tán nhỏ, uống với nước, hoặc sắc với 200 ml nước còn 50 ml uống một lần trong ngày.
Chữa mất ngủLá sen loại bánh tẻ 30g rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô sắc (hoặc hãm nước sôi) để uống.
Chữa sốt xuất huyết: Lá sen 40g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40g, rau má 30g, hạt mã đề 20g, sắc uống ngày 1 thang. Nếu xuất huyết nhiều, có thể tăng liều của lá và ngó sen lên 50-60g.
Chữa băng huyết, chảy máu cam, tiêu chảy ra máuLá sen 40g để sống, rau má 12g sao vàng, thái nhỏ, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.
Chữa ho ra máu, nôn ra máu: Lá sen, ngó sen, sinh địa (mỗi vị 30g), trắc bá, ngải cứu (mỗi vị 20g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.
Chữa đau mắtLá sen, hoa hòe (mỗi vị 10g), cúc hoa vàng 4g, sắc uống còn chữa cao huyết áp.
Đắp nhọt: Dùng ngoài, núm cuống lá sen nấu nước đặt để rửa, rồi lấy lá sen rửa sạch, giã nát với cơm nếp, đắp làm tan mụn nhọt.


Phòng chống béo phì:Công dụng của lá sen được truyền nhau nhiều là giảm béo, hạ mỡ máu. Sỡ dĩ nước lá sen giảm mỡ máu là do tính chất thanh nhiệt, bình can. Thành phần có trong lá sen có chất kiềm, gluxit, những chất đó có tác dụng giãn mao mạch, hạ huyết áp, giảm mỡ trong máu, giảm béo. Lá sen tươi 1 lá, gạo tẻ 100g, đem nấu cháo dùng với đường trắng, cũng có thể gia thêm đậu xanh để tăng sức thanh nhiệt giải độc. Nếu không có lá sen tươi, có thể dùng lá sen khô, nhưng trước khi dùng phải ngâm cho mềm. Hoặc mỗi ngày uống trà lá sen.
Hamosen với sự kết hợp độc đáo của 2 thành phần tinh lá sen cùng thảo quyết minh có tác dụng giúp giảm mỡ máu, giảm béo phì, giúp giấc ngủ sâu và ngon hơn.

 Hamosen

Thành phần:
  • Tinh chất lá sen…….. 250 mg
  • Tinh chất thảo Quyết Minh….. 250 mg
  • Phụ liệu: Magnesi Stearat, Talc, Lactose, tinh bột
Trong đó:
Lá sen bánh tẻ: Chiết xuất từ lá sen có chứa polyphenol, Flavonoid gây ức chế hấp thu lipid và glucid, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất lipid và điều hòa năng lượng nên làm giảm cholesterol và triglyceride toàn phần đồng thời làm tăng cholesterol tốt.







Thảo quyết minh: Dược chất của thảo quyết minh có chứa anthraquinon là một polyphenol có tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần, TG, LDL-C và giảm nồng độ HDL- C thông qua  việc ức chế tổng hợp cholesterol, giảm hấp thu lipid qua ống tiêu hóa. Đồng thời thảo quyết minh có naphthalene và Pyrrole xeton có chức năng giải độc gan tốt, acid oleic, acid Palmitic có tác dụng giúp hạ huyết áp, chống xơ vỡ động mạch, chống kết tập tiểu cầu và hình thành huyết khối.



Công dụng:
  • Giúp giảm mỡ máu, giảm béo phì
  • Giúp giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ, hạ men gan
  • Giúp tạo giấc ngủ ngon
Đối tượng sử dụng:
  • Người có chỉ số mỡ máu cao, rối loạn chuyển hóa Lipid
  • Người bị mất ngủ, rối loạn giấc ngủ
  • Người thừa cân, béo phì
  • Người huyết áp cao
  • Người gan nhiễm mỡ, men gan cao
Cách dùng:

Sử dụng Hamosen với liều 2 viên/lần x 1-2 lần/ngày. Sử dụng sau ăn 1 h.

Chú ý: Sử dụng liên tục trong vòng 1 tháng hoặc theo chỉ dẫn của bác sỹ

Quy cách đóng gói: 3 vỉ x 10 viên nén/hộp

Giá: Mua 1 hộp 290 000đ/hộp. Mua từ 2 hộp trở lên giá còn 285 000đ/hộp

Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh sáng trực tiếp


Sản xuất bởi: Công ty cố phẩn dược phẩm Phúc Lâm

Sử dụng liên tục ít nhất 1 tháng để có hiệu quả tốt nhất. Sau một tháng sử dụng Hamosen bạn sẽ được đi kiểm tra mỡ máu miễn phí do Hamosen tài trợ bằng cách:





  • Khi mua và dùng tối thiểu 2 hộp sản phẩm Hamosen khách hàng sẽ được miễn phí hoặc thanh toán tiền xét nghiệm 02 chỉ số mỡ máu (cholesterol + Triglycerid) và được áp dụng cho hết đời sản phẩm.
  • Điều kiện xét nghiệm: Khách hàng mau 2 vỏ hộp nhôm Hamosen của nhà sản xuất, cùng kết quả xét nghiệm, phiết thu tiền cho bất kỳ nhà thuốc nào, đại lý nào có bán sản phẩm Hamosen trên toàn quốc thì bệnh nhân sẽ được hoàn lại số tiền xét nghiệm  hai chỉ số mỡ máu.
Liên hệ để được tư vấn và giao hàng tận nhà:
Công ty TNHH Thực Phẩm Chức Năng LOHHA
Địa chỉ: 92B Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: 0435 666 347